Thuốc ức chế men chuyển
Tác giả : Thạc sĩ PHẠM NHƯ HÙNG (Viện Tim mạch Quốc gia Việt Nam)
Thuốc ức chế men chuyển là thuốc được chỉ định rộng rãi nhất cho việc điều trị các bệnh lý về tim mạch. Càng ngày người ta càng thấy những lợi ích của thuốc này. Đã gần 30 năm kể từ khi Cushman và Ondetti tìm ra loại thuốc ức chế men chuyển đầu tiên là captopril, ngày nay thuốc ức chế men chuyển đã trở nên phổ biến và được dùng nhiều nhất cho các bệnh nhân tim mạch. Dù không có những thống kê chính xác nhưng theo chúng tôi hiện có khoảng hàng trăm ngàn bệnh nhân đã và đang sử dụng thuốc này ở Việt Nam.
Thuốc ức chế men chuyển là gì?
Ức chế men chuyển là một loại thuốc ức chế sản xuất của angiotensin II. Angiotensin là một hormone có trong máu và có nhiều tác động lên hệ tim mạch. Vai trò chính của angiotensin là làm co mạch máu, điều này sẽ làm huyết áp cao và khiến tim phải hoạt động mạnh hơn để bơm máu đi nuôi cơ thể. Angiotensin cũng làm tăng kích thước và độ dày một vài cấu trúc của tim. Trong nhiều bệnh lý tim mạch, lượng angiotensin thường thấy có nhiều hơn bình thường. Nồng độ angiotensin cao sẽ làm cơ tim dày lên. Sự dày lên của cơ tim về lâu dài làm tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân tim mạch. Nồng độ angiotensin cao cũng tác động lên thành các mạch máu làm cho các mạch máu dày lên, cứng hơn, và điều này dẫn tới dễ làm lắng đọng cholesterol ở thành mạch máu, gây tắc các mạch máu, đây là cơ chế dẫn tới chứng nhồi máu cơ tim hay tai biến mạch máu não. Thuốc ức chế men chuyển sẽ dự phòng, thậm chí có thể đảo ngược sự phì đại cơ tim và dày lên của mạch máu.
Nhận biết thuốc ức chế men chuyển
Thuốc ức chế men chuyển đều có tên gốc có đuôi “pril”, tuy nhiên trên thị trường rất ít khi thuốc có tên thương mại trùng với tên gốc. Tên thương mại của một số thuốc thường dùng ở Việt Nam là: Renitec (enalapril), Capoten (captopril), Coversyl (perindopril), Zestril (lisinopril), Accupril (quinapril)...
Những bệnh nhân nào nên dùng thuốc ức chế men chuyển?
Do thuốc ức chế men chuyển có thể làm giãn các mạch máu nên thuốc có thể dùng cho những bệnh nhân tăng huyết áp. Trên lâm sàng, người ta có thể sử dụng đơn độc thuốc này để điều trị tăng huyết áp và có thể phối hợp thuốc này với các thuốc điều trị tăng huyết áp khác. Trong trường hợp suy tim, thuốc ức chế men chuyển đã được chứng minh là làm giảm tử vong, làm giảm triệu chứng bệnh, giảm tần xuất nhập viện cho bệnh nhân. Thuốc ức chế men chuyển cũng đã được nghiên cứu sử dụng cho bệnh nhân nhồi máu cơ tim nhưng chưa có triệu chứng suy tim và các kết quả đều cho thấy thuốc có thể làm giảm nguy cơ tử vong ở những bệnh nhân này. Đối với một số bệnh nhân có nguy cơ cao bị nhồi máu cơm tim hoặc suy tim (những bệnh nhân bị tắc mạch, đái tháo đường hoặc tăng huyết áp), thuốc ức chế men chuyển có thể dự phòng được nhồi máu cơ tim và đột tử do suy tim. Thuốc ức chế men chuyển là thuốc đặc biệt có hiệu quả trong việc giảm biến chứng nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân đái tháo đường. Thuốc cũng đã được chứng minh là tốt cho những bệnh nhân suy thận nhẹ và có thể bảo vệ được chức năng thận ở bệnh nhân đái tháo đường, đặc biệt là ở bệnh nhân trong nước tiểu có protein.
Dùng thuốc ức chế men chuyển có an toàn hay không?
Thuốc ức chế men chuyển hiện nay được hàng triệu bệnh nhân trên toàn thế giới dùng và hầu hết đều có cảm giác an toàn nhưng cũng có một số tác dụng phụ do thuốc có khả năng làm hạ huyết áp nên cũng có thể làm huyết áp quá thấp, gây ra những triệu chứng như chóng mặt, choáng váng; nhưng do thuốc ức chế men chuyển chỉ hạ huyết áp ở mức độ vừa phải nên thực ra những triệu chứng này rất ít gặp, đặc biệt là khi ta dùng thuốc ức chế men chuyển liều thấp lúc đầu. Tác dụng phụ gặp nhiều nhất là ho, thường xuất hiện ở khoảng 15% bệnh nhân, tuy nhiên thường là nhẹ và hơn một nửa bệnh nhân gần như không cần phải dừng thuốc. Khoảng 8% bệnh nhân ho nhiều khi phải dừng thuốc. Ngoài ra, thuốc ức chế men chuyển còn làm cho chức năng thận tồi tệ hơn khi bệnh nhân bị tắc cả hai động mạch thận. Thuốc cũng làm tăng kali máu, do dó không nên dùng thuốc ức chế men chuyển khi bị suy thận độ III hoặc độ IV. Tuy nhiên, thuốc ức chế men chuyển lại rất tốt trong trường hợp bệnh nhân suy thận nhẹ do tăng huyết áp hoặc do đái tháo đường. Nếu có bất thường về chức năng thận cần tuân thủ theo lời khuyên của bác sĩ có nên dùng hay không.
Khi nào nên dừng thuốc ức chế men chuyển?
Khoảng 1% bệnh nhân dùng thuốc thấy phản ứng lưỡi hoặc cổ họng sưng nề, thường xuất hiện khi bệnh nhân lần đầu tiên dùng thuốc do phù mạch. Một khi xuất hiện những triệu chứng này, thì không nên dùng lại thuốc ức chế men chuyển nữa.
Thuốc cũng có thể gây quái thai, do đó phụ nữ có thai không nên dùng. Nếu bạn bị bệnh tim và đang được điều trị thuốc ức chế men chuyển mà muốn có thai thì nên liên hệ với bác sĩ ngay để điều chỉnh thuốc. Phụ nữ cho con bú cũng không nên dùng loại thuốc này.
Thuốc ức chế men chuyển có thể tương tác với thuốc nào?
Sử dụng thuốc ức chế men chuyển rất an toàn và có thể phối hợp với hầu hết các thuốc khác. Khi dùng với các thuốc lợi tiểu như furosemide (Lasix) hoặc hydrochlorothiazide (Hypo-thiazide) nên theo dõi chức năng thận một cách cẩn thận. Ở bệnh nhân đang dùng insulin, khi mới dùng thuốc ức chế men chuyển có thể làm cho hạ đường huyết. Một số các thuốc giảm đau như Ibuprofen, Naprosyn có thể làm giảm hoạt tính của thuốc ức chế men chuyển.
---------------
5. Thuốc ức chế Calcium
Thuốc ức chế Calcium là những thuốc làm giảm huyết áp. S? co bóp của trái tim nhờ tác dụng của calcium. Thuốc tác dụng bằng cách chậm sự di chuyển calcium vào trong tế bào cơ tim và thành mạch máu, giúp trái tim bơm máu dễ hơn và mạch máu dãn. Kết quả là tim không cần phải làm việc nặng nhọc, và huyết áp giảm đi.
Thí dụ vài thuốc ức chế calcium như :
- Norvasc (amlodipine)
- Plendil (felodipine)
- DynaCirc (isradipine)
- Cardene (nicardipine)
- Procardia XL, Adalat (nifedipine)
- Cardizem, Dilacor, Tiazac, Dilia XL (diltiazem)
- Isoptin, Calan, Verelan, Covera-HS (verapamil)
- Tác dụng phụ gồm những gì?
- Những tác dụng phụ mạnh mẽ do dùng thuốc ức chế calcium bao gồm:
- Ù tai hay chóng mặt
- Hạ huyết áp
- Rối loạn nhịp tim
- Khô miệng
- Phù (sưng mắt cá, chân hay bàn chân)
- Nhức đầu
- Ói mửa
- Mệt nhoài
- Ban đỏ da
- Táo bón hay tiêu chảy
- Hướng dẫn dùng thuốc
Trước khi dùng thuốc ức chế calcium, hãy nói với bác sĩ bạn :
Về tình trạng sức khoẻ, bao gồm những rối loạn về tim hay mạch máu, gan thận
Thuốc men bạn đang dùng, bao gồm những thuốc bán tự do hay thuốc Nam thuốc Bắc. Vài loại thuốc có thể tác động với thuốc ức chế calcium.
- Dùng thuốc ức chế Calcium như thế nào?
Uống thuốc này với thức ăn hay sữa. Theo chỉ dẫn trên nhãn thuốc. Uống bao nhiêu viên trong ngày, thời gian giữa hai lần uống thuốc, và uống trong bao lâu tùy thuộc loại thuốc kê toa và tình trạng bệnh của bạn.
Trong lúc dùng thuốc loại này, bác sĩ có thể yêu cầu bạn ghi lại nhịp mạch đập hằng ngày. Bác sĩ sẽ nói cho bạn biết nhịp mạch nhanh đến chừng nào là chấp nhận được. Nếu mạch của bạn thấp hơn yêu cầu, hãy gọi bác sĩ về việc uống thuốc trong ngày hôm đó.
Nhớ đi khám bác sĩ đúng kỳ hạn để chắc chắn thuốc có hoạt động tốt và không gây ra những phản ứng phụ nào mà không chịu đựng nổi. Bác sĩ của bạn có thể thay đổi liều lượng nếu thuốc không có tác dụng mong muốn.
rước đây khi điều trị bệnh nhân tăng huyết áp, nhiều thầy thuốc thường bắt đầu bằng một thuốc và tăng liều từ thấp lên đến tối đa nếu vẫn chưa kiểm soát được huyết áp. Bất lợi của cách tiếp cận này là làm tăng nguy cơ tác dụng phụ. Năm 2003 Law và cộng sự thực hiện một phân tích gộp số liệu của 354 thử nghiệm lâm sàng điều trị tăng huyết áp bằng lợi tiểu thiazide, chẹn bêta, ức chế men chuyển, chẹn thụ thể angiotensin và chẹn canxi. Mục tiêu của phân tích gộp là đánh giá hiệu quả hạ huyết áp tâm thu và nguy cơ tác dụng phụ của các liều dùng khác nhau (nửa liều chuẩn, liều chuẩn, liều gấp đôi, gấp 4 và gấp 8 liều chuẩn) 1. Kết quả phân tích gộp cho thấy khi mỗi khi tăng liều thuốc lên gấp đôi, tác dụng hạ huyết áp tâm thu tăng lên không nhiều (khoảng 20%), nhưng tần suất tác dụng phụ tăng lên rất đáng kể, đặc biệt với các nhóm thuốc lợi tiểu thiazide, chẹn bêta và chẹn canxi.
Thay vì tăng liều thuốc ban đầu, một số bác sĩ lại chọn cách tiếp cận là chuyển sang một thuốc khác nhóm, và nếu bệnh nhân không đáp ứng với thuốc thứ hai này thì lại chuyển sang một thuốc thứ ba, rồi thứ tư v.v... Cách tiếp cận này được gọi là đơn trị liệu nối tiếp (sequential monotherapy). Bất lợi của đơn trị liệu nối tiếp là mất nhiều thời gian và dễ tạo tâm lý không tin tưởng của người bệnh đối với thầy thuốc. Nói chung, đơn trị chỉ kiểm soát được huyết áp trong không quá 60% các trường hợp, chủ yếu là ở những bệnh nhân tăng huyết áp giai đoạn 1 (huyết áp ≤ 160/100 mm Hg) 2. Trong các thử nghiệm lâm sàng điều trị tăng huyết áp, để đạt mục tiêu huyết áp được đề ra ban đầu, các nhà nghiên cứu thường phải phối hợp nhiều thuốc.
Ưu điểm của phối hợp thuốc sớm trong điều trị tăng huyết áp đã được chứng minh một cách thuyết phục bởi nghiên cứu của Wald và cộng sự 3. Các tác giả này gộp số liệu của 42 thử nghiệm lâm sàng điều trị tăng huyết áp với lợi tiểu thiazide, chẹn bêta, chẹn canxi và ức chế men chuyển (10.968 bệnh nhân tham gia) nhằm so sánh hiệu quả hạ huyết áp tâm thu của việc tăng liều thuốc từ liều chuẩn lên gấp đôi liều chuẩn với việc phối hợp thêm một thuốc khác nhóm. Kết quả phân tích gộp cho thấy khi phối hợp thêm một thuốc khác nhóm (cả thuốc đầu lẫn thuốc phối hợp thêm đều dùng với liều chuẩn), mức hạ huyết áp tâm thu đạt được nhiều hơn gấp 5 lần so với khi tăng liều thuốc ban đầu lên gấp đôi liều chuẩn, bất kể thuốc ban đầu và thuốc phối hợp thêm thuộc nhóm nào 3. Kết quả của phân tích gộp này được biểu diễn trên hình 1.
Thật ra việc phối hợp thuốc sớm trong điều trị tăng huyết áp không phải mới được áp dụng gần đây. Từ giữa thập niên 1990 việc khởi trị bằng phối hợp 2 thuốc cho những bệnh nhân có nguy cơ cao (do có huyết áp khởi điểm cao hoặc có bệnh tim mạch hay nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch kèm theo) đã được 2 tác giả Epstein và Bakris đề nghị 4. Đến nay cách tiếp cận này đã được công nhận rộng rãi. Trong hướng dẫn cập nhật 2009 về điều trị tăng huyết áp của Hội Tăng huyết áp Châu Âu có nêu rõ là phối hợp 2 thuốc ngay từ đầu rất có lợi đối với những bệnh nhân có nguy cơ tim mạch cao vì những người này cần được kiểm soát huyết áp sớm 5.