Các bộ phận cây lá bép dùng làm thuốc
+Theo Đông y
Cây Lá bép hay còn gọi là cây lá bét (Gnetum gnemon L. var.griffithii Markgr.) có tiềm năng lớn không chỉ bởi giá trị dinh dưỡng mà còn vì dược tính của nó.
Không chỉ ngon, đủ calo, an toàn, lá bép còn chứa các hoạt chất sinh học tự nhiên cần cho sức khỏe, kéo dài tuổi thọ.
+Theo Tây y
-Năm 1955, Masilungan và những đồng nghiệp phát hiện chất chiết trong lá cây lá bép có chứa các chất kháng sinh.
-Gần đây, cây lá bép được phát hiện là loài cây giàu các hợp chất chất hoạt động sinh hóa nhóm stilbenoid, bao gồm chất resveratrol (3,5,4 '-trihydroxy-trans-stilbene) là một chất phenol tự nhiên , và chất phytoalexin (sản xuất tự nhiên khi cây bị tấn công bởi các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn hoặc nấm). Đây là những hợp chất dimer (kết hợp bởi hai phân tử cùng loại bởi nối cộng hóa trị).
Một ví dụ về một stilbenoid là resveratrol , được tìm thấy trong nho và đã được công nhận có nhiều lợi ích sức khỏe. Chất resveratrol trong cây lá bép giống như ở cây nho. Kết quả này đã được công bố tại Hội nghị XXIII quốc tế về polyphenol, Canada, vào năm 2006.
-Trong các thí nghiệm ở chuột, khả năng chống ung thư, chống viêm , hạ lượng đường trong máu và mang lại lợi ích tim mạch do tác động của resveratrol đã được báo cáo nói chung là tích cực.
-Trong một thử nghiệm ở con người với liều cao (3-5 g) resveratrol, trong một công thức thiết kế để tăng cường khả dụng sinh học , lượng đường trong máu hạ thấp đáng kể.
-Chất resveratrol trong cây lá bép có tính kháng khuẩn và chống hoạt động oxy hóa , được dùng như là một chất bảo quản thực phẩm. Loài này có thể có những ứng dụng trong các ngành công nghiệp thực phẩm mà không sử dụng bất kỳ hóa chất tổng hợp nào.
-Bốn chất oligomers stilbene mới, gồm gnemonol G , H , I và J , được phân lập từ chiết xuất acetone của cây lá bép (Gnetum gnemon) cùng với năm chất stilbenoids được biết đến là: E ampelopsin , cis-ampelopsin E , gnetin C , D và E .
-Ly trích lá khô của cây lá bép bằng acetone dưới nước (tỷ lệ 1:1) thu được các chất C -glycosylflavones (gồm isovitexin, vicenin II, isoswertisin, swertisin, swertiajaponin, isoswertiajaponin). Ly trích bào tử khô của cây lá bép bằng ethanol 50% thu được C gnetin, gnetin L (một stilbenoid mới), gnemonosides A, C, và D, và resveratrol. Các chất này có hoạt tính kháng khuẩn và ức chế lipase và α- amylase từ tụy lợn. Gnetin C cho thấy hiệu quả tốt nhất giữa các stilbenoids.
c- Các công dụng khác
-Hạt rang lên ăn bùi như Lạc (đậu phộng).
-Vỏ cây có sợi rất dai, chịu đợc nước biển, nên đợc dùng làm dây thừng và lưới đánh cá.
-Gỗ xấu, ít có giá trị, được sử dụng để sản xuất bột giấy ở Indonesia, Malaysia và Hồng Kông.
-Ở Indonesia người dân dùng gổ đốt xông khói để đuổi muỗi.
Dùng làm rau
+Ở Việt Nam
-Cây lá bép được dùng làm rau đã biết từ lâu đời bởi người dân tộc thiểu số sống trên các vùng có loài cây này mọc tự nhiên trong rừng.
Đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây nguyên thường xuyên và yêu thích sử dụng lá bép làm rau ăn ở dạng xào hoặc nấu canh với cá suối...
Lá bép mọc quanh năm, nhưng sau khoảng 5-6 trận mưa đầu mùa là thời điểm lá bép ngon nhất. Khi này, đọt mầm bung nở, tươi mát nhất. Đồng bào dân tộc tranh thủ vào rừng hái, đây cũng là lúc lá cho vị ngọt hơn tất cả mọi thời điểm.
-Rau lá bép trở nên nổi tiếng trong thời kỳ kháng chiếng chống Mỹ khi bộ đội Việt Nam sống trong chiến khu thiếu lương thực phải ăn rau rừng để sống trong thời kỳ chiến trường ác liệt.
Trong quyển "Những kỷ niệm ở rừng miền Đông" của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân có kể rằng, một đơn vị bộ đội khi hành quân trên vùng Bình Phước chẳng may bị lạc rừng. Hết lương thực, đoàn quân hàng trăm người phải tìm lá cây rừng ăn cầm hơi suốt một tuần. Đó là những thứ lá rừng vị ngọt thanh, ăn khá ngon miệng. Mãi sau này, nhiều người mới biết đó là lá bép.
Để giúp bộ đội Trường Sơn chủ động tìm nguồn thức ăn khi thiếu lương thực, Nhà Xuất bản Quân đội nhân dân in ấn sách rau rừng dạng sổ tay khổ nhỏ, trong đó mô tả hàng trăn loại rau rừng, củ, quả và nấm rừng ăn được có hình ảnh mẫu kèm theo để giúp bộ đội đi tới đâu, gặp rau nào thì đối chiếu tìm nấu. Trong đó có loài rau bép thuộc những cây rau chủ lực.
Vùng Đông Nam Bộ thời chiến tranh, ở Bù Đốp, Bù Gia Mập, Bù Bông, Bù Đăng, Sóc Bom Bo… có nhiều cây bép mà nhạc sĩ Huy Du sáng tác bài "Nổi lửa lên em" có câu: " … lá bép rau rừng thêm thắm tình anh nuôi".
Đọc đến đây chắc bạn hiểu thêm “lá bép” trong bài ca rồi nhĩ!
-Lá bép khi còn non, mỏng và mềm, màu lục nhạt, dùng nấu canh ăn rất ngon, có thể so sánh với rau Sắng chùa Hương (Melientha suavis Pierre).
Ăn Rau bép không có ảnh hởng gì xấu đến cơ thể. Có thể nấu với thịt ăn cũng ngon.
Người Chơ ro có một món canh ngon, lạ và hội đủ tinh túy của núi rừng khiến ai đã từng một lần thưởng thức đều phải nhớ mãi. Đó là canh ống thụt lá bép.
Món canh rau bép ống thụt (nấu trong ống nứa) của
Đồng bào dân tộc Chơ ro ở Tây nguyên
Bao năm qua, đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng sử dụng lá bép làm rau ăn và thời gian gần đây mang ra chợ miền núi ở Di Linh bán với giá tương đương với rau muống.
-Hiện nay, rau lá bép đã trở thành hàng hóa và bán tại các chợ với giá từ 2.000 - 3.000 đ/bó. Tại nhà hàng Khu du lịch Madagui, nó là một đặc sản rất được ưa chuộng. Ở Lâm Đồng cây lá bép mọc tự nhiên phổ biến ở các xã Đinh Trang Thượng và Đinh Trang Hòa của huyện Di Linh, xã Madagui, huyện Đạ Huoai, và nhiều nơi ở huyện Đam Rông, Lâm Đồng.
Ngày nay, lá bép đã có mặt trong thực đơn của các nhà hàng ở Tây Nguyên như canh cua lá bép, đọt mây-lá bép xào cá hộp, … và luôn được giới thiệu với khách miền xuôi như là một món ngon đặc sản mà núi rừng đã hào phóng ban tặng cho những con người Tây Nguyên nồng hậu và mến khách này.
Món rau lá bép luộc của đồng bào dân tộc K’Ho ở Tây nguyên.
Rau lá bép xào
Bánh chiên dòn từ hạt cây lá bép ở Indonesia
+Ở nước ngoài
-Ở Indonesia Cây lá bép là cây bản địa mọc hoang hoặc trồng rất phổ biến và được dùng trong ẩm thực ở nước này.
Hạt cây lá bép được dùng để nấu món Súp rau chua Indonesia (Sayur Asem) và cũng có thể, nghiền thành bột và chiên thành món bánh emping , một loại bánh ghém krupuk giống như bánh phòng tôm ở Việt Nam. Loại bánh này có hương vị hơi đắng và thường được dùng để ăn nhẹ hoặc ăn kèm với các món chiên, xào khác. Lá cây rau bép cũng thường được sử dụng làm rau trong các món ăn.
Hạt được nghiền thành bột và rán kỹ thành một loại bánh giòn. Bánh này có vị hơi đắng và được dùng như là đồ ăn kèm với tên gọi 'Keropok Belinjau' trong ẩm thực của người Indonesia và Malaysia.
Loài cây này được trồng phổ biến ở khu vực Aceh và được xem như một loại cây rau cao cấp.
Hoa, lá non và quả tươi được dùng như thành phần trong món cà ri rau truyền thống gọi là Kuah pliek . Món ăn này được phục vụ trên tất cả các dịp lễ truyền thống quan trọng, chẳng hạn như khanduri và keureudja .
Ở quận Pidie, phụ nữ chọn trái chín (màu đỏ) để làm món keureupuk muling.
Bánh quy dòn Melinjo là một phần của thực đơn trong bữa ăn tối để tiếp đải tổng thống Mỹ Barack Obama trong chuyến thăm cấp nhà nước với Indonesia vào năm 2010, ngài tổng thống da đen này đã ca ngợi bánh quy giòn, cùng với các món Bakso (súp thịt viên) và Nasi Goreng (cơm chiên) là ngon.
Hiện nay, sản phẩm bánh quy dòn Melinjo Extract được sản xuất và giám sát theo hợp tác giữa Hiệp hội Nông nghiệp Indonesia ( NOFA (id: KTNA); Tổ chức Mẹ Ikamaja) và JASMELINDO (Tổ chức phi lợi nhuận Nhật Bản), để bảo vệ lợi nhuận nhất định cho nông dân Indonesia.
-Ở Thái Lan có loài Cây Phác mang (Phat miang) của Thái Lan Gnetum gnemon L. var, tenerum Markgr, là loại rau quan trọng ở miền Nam nước này.
-Ở Châu Phi có hai loài cây Lá gắm Gnetum africanum và G. buchholzianum phát triển rộng rải ở Trung Phi, là loại rau ăn lá giàu dinh dưỡng.
Cả hai loài này được mọc hoang và trồng nhiều ở Gabon, Congo, Cameroon, Nigeria và Angola với tên gọi địa phương phổ biến là ‘koko’, ‘eru’, ‘okok’, ‘ukasi’... (Bahuchet, 1990).
Lá giàu đạm, acid amin và khoáng chất, được dùng làm rau ăn sống, luộc, xào, nấu súp và được buôn bán khắp các chợ ở Trung Phi. Ước tính hàng tuần có khoảng 600 tấn lá được vận chuyển đến các chợ đầu mối.
-Ở Nam Mỹ có nhiều loài dây leo thuộc Chi Dây gấm (Gnetum) có lá non, cụm hoa, quả non và quả chín đều ăn được và được xếp vào loại rau sạch quý hiếm.
Theo Đông y thì rau dớn có tính m&a
Các bài thuốc từ cây chòi mòi
Công dụng của sâm đại hành
TÁC DỤNG CỦA VE SẦU
Khổ qua rừng dùng làm rau hoặc nấu nước uống có tính hàn, tác dụng giải nhiệt, bổ huyết, bổ gan, giải độc, chống lão hóa và phòng ngừa các bệnh tim
Thông tin liên hệ
Số 224 Đường Phan Chu Trinh, TT Vĩnh An, Vĩnh Cửu, Đồng Nai
Bản quyền thuộc về YteVinhCuu © 2011-2024
Liên kết mạng xã hội